HỒ CHÍ MINH ĐẸP NHẤT TÊN NGƯỜI

LỜI MỞ ĐẦU!

Cách đây một thế kỷ, vào ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Sài Gòn trên con tàu Amiral Latouche Tre1ville. Ngày nay đã trở thành một cột mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam, là khởi nguồn của những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam sau này.

          Kỷ niệm 112 năm ngày Bác ra đi tìm đường cứu nước, nhóm thư viện Tiểu học quận Tân Phú (biên soạn sưu tầm tư liệu từ nguồn tập sách “Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”(Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản). Tư liệu (phần I) được trình bày theo bố cục biên niên gồm các giai đoạn trong chặng đường hoạt động của Hồ Chủ tịch từ Làng Sen quê Bác đến Quảng trường Ba Đình lịch sử. Với những hình ảnh cùng các tư liệu minh hoạ, mong rằng tư liệu sẽ cung cấp cho bạn đọc những tư liệu và hình ảnh sống động về cuộc đời hoạt động của Bác Hồ kính yêu, vị anh hùng giải phóng của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá của thế giới.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

MỤC LỤC

TÓM TẮT TIỂU SỬ

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân ở làng Kim Liên huyện Nam Đàn, tỉnh nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu.

Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.

Tháng 6 năm 1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những công nhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động để kiếm sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi vang dội của Cách mạng tháng Mười Nga đã đưa Hồ Chủ tịch đến với chủ nghĩa Marx-Lenin. Ra sức nghiên cứu chủ nghĩa Marx-Lenin, Người đã nhận rõ đó là đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng các giai cấp.

Cùng năm ấy, Người thành lập hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt kiều ở Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng cộng sản xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công dân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến hội nghị Versailles (Hội hội nghị các nước tham gia Thế chiến thứ nhất được tổ chức tại Versailles, Pháp) bản yêu sách của nhân dân Việt Nam, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đây đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1921, Nguời tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo Le Paria (Nguời cùng khổ) ở Pháp, Tháng 6 năm 1923, Nguời từ Pháp đi Liên  Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Marx- Lenin và tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản. Cùng năm đó, Người được bầu vào đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế Cộng sản và được cử làm ủy viên Bộ Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào cộng sản ở các nước Đông Nam Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.

Tháng 6 năm 1925, Người tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, mà hạt nhân là Cộng sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm cán bộ đưa về nước hoạt động.

Ngày 03-02-1930, Người triệu tập Hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống nhất các nhóm cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thời gian từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ thị quý báu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.

Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Người về nước triệu tập Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Ngày 22-12-1944, Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng Quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay và xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tháng 8 năm 1945, trong không khí sôi sục cách mạng của thời kỳ tiền khởi nghĩa, Người cùng Trung ương triệu tập Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đã cử Người làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 02-9-1945, Người đọc bảng Tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn thế giới, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

1890 – 1911

NGƯỜI HỌC TRÒ YÊU NƯỚC, DẤN THÂN    

           Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho yêu nước.

Hai cụ thân sinh của Người là ông Nguyễn Sinh Huy (tức Nguyễn Sinh Sắc) và bà Hoàng Thị Loan. Ông Sắc sinh năm 1862, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhưng đã sớm có ý thức tự lập, thông minh, ham học. Năm 1901, ông thi Hội và đậu phó bảng, tuy đỗ cao nhưng vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và sau đó sống bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Tư tưởng yêu nước tiến bộ và nhân cách cao thượng của ông đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến các con. Ông qua đời tại thị xã Cao Lãnh (Đồng Tháp) vào năm 1929, thọ 67 tuổi.

Bà Loan sinh năm 1868 trong một gia đình nho học. Bà là một một phụ nữ thông minh, hiền hậu đảm đang, sống bằng nghề làm ruộng, dệt vải chăm lo dạy dỗ các con. Bà qua đời tại Huế năm 1901, lúc 33 tuổi.

Nguyễn Sinh Cung (tức Nguyễn Tất Thành từ tháng 9-1901) là con thứ ba trong gia đình, có người chị là Nguyễn Thị Thanh (tức Bạch Liên) (1884-1954) và anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tức Nguyễn Tất Đạt) (1888-1950), đều tham gia phong trào chống thực dân Pháp.

Nguyễn Tất Thành là một học trò thông minh, chăm chỉ học tập và ham tìm hiểu những đều mới lạ. Ngoài những sách học, cậu còn ham đọc truyện và thơ ca yêu nước. Những chuyện anh hùng, liệt sĩ ở địa phương, những buổi đàm luận về thời cuộc giữa cụ Phó bảng và những nhà yêu nước khác mà cậu được nghe đã sớm giáo dục cho cậu tinh thần yêu nước, thương nòi. Năm 15 tuổi, anh đã tham gia công tác bí mật, làm liên lạc cho một số nhà nho yêu nước lúc bấy giờ. Mặc dù rất coi trọng các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, nhưng sau này anh không đi theo con đường của các cụ, không theo phái Đông Du sang Nhật, mà sang các nước phương Tây nơi có tư tưởng tự do, dân chủ và khoa học kỹ thuật hiện đại hấp dẫn.

Vào tháng 4-1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên và bị thực dân Pháp để ý theo dõi, ông Sắc cũng bị khiển trách vì đã để cho con trai có những hoạt động bài Pháp. Trong thời gian học ở trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành tiếp cận được với nhiều sách báo tiến bộ và những người yêu nước. Tháng 6-1909, anh theo cha vào Bình Định khi ông Sắc được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê và học tiếp chương trình cao đẳng của Trường Tiểu học Pháp – Việt Quy Nhơn. Khi cha bị cách chức tri huyện và bị triệu về kinh, anh không đi theo cha mà đi tiếp vào miền Nam. Anh dừng lại ở Phan Thiết, dạy học ở Trường Dục Thanh, một trường tư do một số văn thân yêu nước lập ra. Trong những ngày dạy học tại đây, anh không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức văn hóa mà còn chú ý giáo dục cho họ tình thần yêu nước, thường nòi. Việc tiếp cận với các tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp qua các sách báo ở trường càng thôi thúc anh tìm đường ra nước ngoài.

Ít lâu sau, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ “bảo hộ” và Bắc Kỳ dưới chế độ “nửa bảo hộ”. Ở đâu nhân dân ta cũng bị áp bức bóc lột, đồng bào ta cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc anh đi sang các nước phương Tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về “giúp đỡ đồng bào đánh đuổi thực dân Pháp”. Ý định ấy đã dẫn anh từng bước đi tìm phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.

Làng Sen, quê nội, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
Làng Sen, quê nội, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An nơi Nguyễn Sinh Cung sống lúc nhỏ

Nhà số 112 đường Mai Thúc Loan, thành nội Huế, nơi gia đình Nguyễn Sinh Cung sống thời gian ở Huế (1895-1901)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
Nhà số 112 đường Mai Thúc Loan, thành nội Huế, nơi gia đình Nguyễn Sinh Cung sống thời gian ở Huế (1895-1901)

 
Trường Quốc học Huế, nơi Nguyễn Tất Thành theo học niên khoá (1907-1908)

                       Bến cảng nhà Rồng nơi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

1911 – 1920

NGƯỜI THANH NIÊN VÀ CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Sau một thời gian ngắn ở Sài Gòn, ngày 05 tháng 6 năm 1911, dưới tên Văn Ba, làm phụ bếp dưới tàu buôn Đô đốc Latouche Tréville của hãng Chargeurs Réunis, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Sài Gòn bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Người đã ghé qua trên 30 nước và vùng lãnh thổ, trước hết là sang Pháp, nhưng không dừng lại ở nước Pháp mà còn đi qua nhiều nước khác ở châu Âu, châu Phi và châu Mỹ như: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Algeria, Tunisia, Congo, Dahomey, Senegal, Réunion, Mỹ, Anh… Với lòng yêu nước nồng nàn và lòng căm thù sâu sắc bọn thực dân cướp nước và bè lũ tay sai bán nước, lòng kiên trì chịu đựng mọi gian khổ, đến bất cứ đâu anh đều chú ý xem xét tình hình và suy nghĩ về những điều mắt thấy tai nghe, mong sao thực hiện được hoài bão cao cả của mình.

Cuối 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt động phong trào Việt Kiều và phong trào công nhân Pháp. Cũng lúc đó, cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga bùng nổ đã làm chấn động cả thế giới như tiếng sấm mùa xuân. Cách mạng tháng Mười đã thức tỉnh giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc bị áp bức toàn thế giới vùng dậy đấu tranh. Nó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, kỷ nguyên tan rã của chủ nghĩa tư bản, kỷ nguyên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng quyết định đối với đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phấn khởi và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, anh quyết tâm đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga.

Cuối năm 1918, anh gia nhập Đảng Xã hội Pháp, chính đảng lớn nhất lúc bấy giờ ở Pháp.

Tháng 11 năm 1918, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Năm 1919, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Versailles nhằm chia lại thị trường thế giới. Nhân dịp này, thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp với tên Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành gửi đến Hội nghị Versailles “Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam”, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

Tháng 7 năm 1920, qua báo Nhân Đạo (L’Humanité) của Pháp “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đến với Người. Từ bản luận cương của Lênin, Người đã tìm thấy đường lối và phương hướng cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam.

Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến 30 tháng 12 năm 1920 tại thành phố Tours, Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự. Người đã đọc tham luận tố cáo những tội ác tày trời của thực dân Pháp ở Đông Dương kêu gọi giai cấp công nhân và những người cách mạng chân chính Pháp cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam và các thuộc địa khác. Cũng tại đại hội lịch sử này, cùng với những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đứng hẳn về Quốc tế III, bỏ phiếu gia nhập quốc tế cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp, đồng thời cũng là người cộng sản đầu tiên. Đó là sự kiện chính trị vô cùng quan trọng đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Từ đó, Người đã tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, con đường kết hợp đấu tranh giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa, kết hợp tư tưởng yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả.

1920 – 1924

NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN QUỐC TẾ - ĐẠI BIỂU CỦA NHÂN DÂN THUỘC ĐỊA

Dưới ánh sáng nghị quyết Quốc tế Cộng sản và “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin qua yêu cầu thực tế, qua yêu cầu thực tế của công tác cách mạng, từ sau khi trở thành đảng viên cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần phải xúc tiến công tác tuyên truyền và tổ chức mới có thể thúc đẩy được phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có cách mạng Việt Nam.

          Tháng 7 năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vận động cách mạng ở các nước thuộc địa, năm 1922, Hội Liên hiệp thuộc địa cho xuất bản tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), việc xuất bản báo Le Paria là “một vố đánh vào bọn thực dân Pháp” và là “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức”. Đặc biệt trong thời gian này, Người đã viết tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp. Một số phần trong tác phẩm đã được đăng trên báo Le Paria từ năm 1922 đến năm 1924. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp không chỉ dừng lại ở việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc, mà điều quan trọng là đã nêu lên những luận điểm cơ bản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.

          Đầu năm 1923, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản báo Việt Nam Hồn, viết bằng tiếng Việt, để giác ngộ lòng yêu nước, ý thức cách mạng cho Việt kiều đang sống ở Pháp và gửi về kêu gọi đồng bào nổi dậy đấu tranh đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập, tự do.

          Tháng 6 năm 1923, được sự giúp đỡ tích cực của Đảng Cộng sản Pháp và những người công nhân Pháp, Đức, Nguyễn Ái Quốc đã rời nước Pháp sang Liên Xô, chuẩn bị dự Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản.

          Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm nghiên cứu phong trào công nhân mà còn quan tâm nghiên cứu và tổ chức hoạt động trong phong trào nông dân. Với tư cách là đại biểu của nông dân các nước thuộc địa, Người đã tham dự đại hội Quốc tế Nông dân họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923 tại Matxcơva. Đây là đại hội đầu tiên để thành lập một tổ chức quốc tế thống nhất của nông dân các nước thuộc địa. Đại hội đã thông qua điều lệ, lời kêu gọi, nhiều nghị quyết quan trọng khác và bầu Ban chấp hành Quốc tế Nông dân gồm 10 ủy viên, trong đó Nguyễn Ái Quốc được bầu làm ủy viên Đoàn chủ tịch.

          Tại Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến ngày 08-7-1924 tại Moskva, Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách là đại biểu tư vấn. Tại Đại hội, Người đã trình bày lập trường, quan điểm của mình về cách mạng thuộc địa và đã được Đại hội hoan nghênh. Một số Đảng cộng sản đã quan tâm hơn trước đến phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

          Là ngôi sao sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã bước đầu vạch ra những vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược, sách lược và phương pháp của cách mạng Việt Nam. Đó là bước chuẩn bị rất quan trọng về chính trị và tư tưởng để tiến tới thành lâp một Đảng cộng sản ở Việt Nam.

 

1924 – 1930

NGƯỜI NHÓM LỬA CÁCH MẠNG

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào yêu nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam. Trước tình hình đó, sau một thời gian ở lại Liên Xô để nghiên cứu chế độ Xô viết và kinh nghiệm xây dựng đảng theo nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin, Nguyễn Ái Quốc đã về gần Việt Nam để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng. Ngày 11 tháng 11 năm 1924, Người về đến Quảng Châu (Trung Quốc).

Người đã chọn một số thanh niên Việt Nam yêu nước ở Quảng Châu và một số thanh niên khác ở trong nước sang mở trường huấn luyện chính trị, để đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng, đưa họ trở về nước hoạt động trong giai cấp công nhân và nông dân ta. Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài cho các lớp huấn luyện. Những bài giảng của Người được tập hợp in thành sách mang tên Đường kách mệnh xuất bản năm 1927.

Để làm cơ sở cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, tổ chức tiền thân của Đảng. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là một tổ chức rất chặt chẽ, gần như một đảng cộng sản, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dùng tự phê bình và phê bình để xây dựng Hội. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đóng vai trò lịch sử cực kì quan trọng trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.

Để tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Hội, Nguyễn Ái Quốc đã xuất bản tuần báo Thanh niên. Đây là một vũ khí sắc bén trong việc truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào giai cấp công nhân và nhân dân ta. Cùng với tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, cuốn Đường kách mệnh, báo Le Paria và một số văn kiện khác, báo Thanh niên đã góp phần quan trọng vào việc xúc tiến chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 5 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Moskva, sau đó đi Berlin tham dự Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng của Liên đoàn Chống chiến tranh đế quốc tại Brussels (Bỉ), đi Ý và trở về Xiêm (Thái Lan ) vào mùa thu năm 1928.

Trong những năm 1928 – 1929, phong trào cách mạng ở nước ta dâng lên mạnh mẽ. Cuối năm 1929, ba tổ chức cộng sản đã liên tiếp ra đời là: An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản Liên đoàn. Sự kiện đó chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là một tất yếu của sự phát triển phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam năm 1929. Cuối mùa thu năm 1929, đang hoạt động ở Thái Lan, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã trở lại Hồng Kông triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ chức, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị đã họp từ ngày 03 đến 07 tháng 02 năm 1930 tại Cửu Long (Hồng Kông). Sau 5 ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử, do những điều kiện trong nước và thế giới lúc ấy quyết định, đồng thời là kết quả rực rỡ của cả một quá trình hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc, Người đã đấu tranh kiên cường trong phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, kiên trì học tập, tìm tòi nghiên cứu và rèn luyện. Đó là kết quả to lớn của gần 10 năm chuẩn bị rất công phu và đầy đủ của Người về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

1930 – 1945

NGƯỜI LÃNH ĐẠO TỔNG KHỞI NGHĨA THẮNG LỢI

Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm vào tháng 3 và đến Malaysia vào tháng 4 năm 1930 để làm nhiệm vụ quốc tế. Ngày 01 tháng 5 năm 1930 người qua Singapore rồi trở lại Hồng Kông để theo dõi việc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và cùng với Trung ương đảng chỉ đạo cách mạng trong nước. Tháng 10 năm 1930 tại Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị đã thảo luận và thông qua “Luận cương cách mạng tư sản dân quyền”, bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng chí Trần Phú làm Tổng bí thư của Đảng. Ở trong nước, lúc này phong chào cách mạng đang dấy lên mạnh mẽ và đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931); đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Hoảng sợ trước cao trào cách mạng năm 1930 - 1931 và ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc đối với các nước ở Đông Nam châu Á, ngày 06 tháng 6 năm 1931, đế quốc Anh đã bắt giam Người (lúc ấy lấy tên là Tống Văn Sơ) một cách trái phép tại Hồng Kông. Được tin người bị bắt, Liên đoàn chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ nền độc lập dân tộc đã kịp thời ra tuyên bố phản đối chính phủ Anh và đòi trả tự do cho Người. Do tinh thần kiên định cùng với sự can thiệp của quốc tế cứu tế đỏ và luật sư Loseby, vì kính phục Người đã hết lòng giúp đỡ, tòa án Hồng Kông và Hội đồng nhà vua Anh buộc phải tuyên bỏ xóa án. Mùa xuân năm 1933, người ra khỏi nhà lao của đế quốc Anh. Đầu năm 1934, người trở lại Liên Xô. Tại đây, người vào học trường đại học Lênin, nghiên cứu ở viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong chào cách mạng trong nước trong tình hình chủ nghĩa phát xít đã công khai đàn áp mọi phong chào dân chủ và hòa bình.

Tháng 10 năm 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc. Cuối năm 1940, người về sát biên giới Việt - Trung, bắt liên lạc với tổ chức Đảng. Người đã mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị cán bộ đáp ứng yêu cầu tình hình, nhiệm vụ mới.

Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Nguyễn ái quốc về nước, Người chọn Cao Bằng làm căn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong chào cách mạng. Vùng Khuồi Nậm, Pác Bó là nơi họp Hội nghị vùng lần thứ 8 của trung ương (tháng 5 năm 1941) do Nguyễn ái quốc chủ trì, nơi ra báo Việt Nam độc lập, mở các lớp huấn luyện xây dựng lực lượng cách mạng.

Tháng 8 năm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam tại đây. Ngày 29 tháng 8 năm 1942, người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam, sau đó trải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian ở tù Hồ Chí Minh đã viết nên tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) bằng chữ Hán. Nhật ký trong tù không những là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là một tác phẩm văn học lớn. Tập thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc cho toàn Đảng và toàn dân ta về phẩm chất và đạo đức cách mạng. Tháng 9 năm 1943, sau khi ra khỏi nhà tù, Người tiếp xúc với các tổ chức chống Nhật, chống Pháp của người Việt Nam ở Liễu Châu, đồng thời, nối lại liên lạc với Đảng ta để trở về nước tiếp tục lãnh đạo phong trào. Tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh trở lại Cao Bằng. Tháng 12 năm 1944, Người quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng Quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

Ngày 09 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cảng Pháp độc chiếm Đông Dương. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai cũng bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các nước Đồng minh. Ngày 04 tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) để trực tiếp chỉ đạo phong trào trong cả nước. Ở Đông Dương, quân Nhật hoang mang dao động đến cực điểm. Chớp thời cơ ấy, ngày 12 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định tiến hành tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Đông Dương, theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, toàn dân ta từ Bác chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, triệu người như một, nhất tề vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 19 tháng 8 khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23 tháng 8 thắng lợi ở Huế, ngày 25 tháng 8 thắng lợi ở Sài Gòn.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trong cuộc mít tinh của hơn 50 vạn đồng bào, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam trước nhân dân ta và nhân dân thế giới.